Thứ Hai, 19 tháng 8, 2013

Giải mã chuyện vua mới thêm Đinh xét án bằng “hổ dữ, vạc dầu”.

Đến đây phép xử án được bằng thẳng rõ ràng” (Theo  Đại Việt sử ký tiền biên  )

Giải mã chuyện vua Đinh xét án bằng “hổ dữ, vạc dầu”

Theo Kienthuc. Trong đó, không lẽ nào là không có kẻ phạm tội lớn nhỏ nên đương nhiên phải có việc xét xử, kiện cáo án nọ, án kia. Thời nhà Đinh, Vạn Thắng Vương Đinh Bộ Lĩnh sau khi lên ngôi Hoàng đế thì: “Vua định phẩm bậc của các quan văn, võ và tăng đạo: Nguyễn Bặc làm Định Quốc Công, Lưu Cơ làm Đô hộ phủ Sĩ Sư, Lê Hoàn làm Thập Đạo Tướng quân, Ngô Chân Lưu được hiệu là Khuông Việt Thái sư, Trương Ma Ní làm Tăng Lục Đạo Sĩ” (  Việt sử tiêu án   – Ngô Thì Sĩ).

Tần Thủy Hoàng cũng ưa hình pháp, chôn sống người phạm tội, lại kẻ nào dị đồng chính kiến, cho bỏ luôn vào vạc dầu sôi suốt mấy ngày đêm làm bao lăm quan thần phải bỏ mạng. Thực hư của pháp hình này rao sao?  Kiểu xét án duy nhất triều Đinh  Thời nhà Ngô (938 - 965) với Ngô Vương Quyền mở màn trang sử độc lập, tự chủ của dân tộc ta sau chiến thắng Bạch Đằng năm Mậu Tuất (938), rồi các triều đại nối tiếp về sau là nhà Đinh (968 - 980), nhà Tiền Lê (980 - 1009) củng cố chắc chắn nền tảng độc lập, tự chủ đó để về sau chế độ phong kiến Đại Việt dần đi vào hoàn thiện, phồn thịnh.

Như vậy, dẫu hổ dữ có nuôi, vạc dầu có đỏ lửa, nhưng vua Đinh chỉ là để khuyên răn những kẻ có dã tâm phạm tội nhìn thấy mà khiếp sợ, hơn là hiện thực hóa hình phạt.

Trong khi đó, quan chuyên về võ phần nhiều, thi chọn người tài chưa có, việc chế định luật pháp thành thử cũng chưa thể thực hiện. Nhưng vua vận dụng một biện pháp chưa từng có trong sử nước Nam ta nói chung và Đại Cồ Việt nói riêng.

Mang tai mang tiếng đã chế định triều nghi từ thời nhà Ngô với hai ban văn võ, nhưng trong lĩnh vực hình pháp, thì luật pháp thành văn chưa xuất hiện, triều đình xét xử vẫn dùng luật tục trong dân gian là chủ yếu. Thế nên khi nhà Đinh thay nhà Ngô, vua Đinh Tiên Hoàng cũng quan tâm tới vấn đề đó.

Trong  Việt sử toàn thư   được hậu thế viết sau này cũng khẳng định: “Nhờ có hình luật nghiêm khắc này, nền an ninh quốc gia được vãn hồi”.

Thế nên trong  An Nam chí lược  của Lê Tắc, khi viết về vua Lê Đại Hành, cũng là thời chưa có luật thành văn, phần thuật lại chuyến đi sứ của Tống Cảo năm Canh Dần (990) có viết về vua ta: “Bọn quan thuộc hễ ai thạo việc, thì chọn vào ở thân cận, ai phạm chút lỗi gì, thì đánh đuổi đi, khi hết giận, thì cho khôi phục chức cũ”. Nước có nền tự chủ chưa được bao lâu, loạn 12 sứ quân vừa vãn hồi, ắt trong thế gian vẫn còn nơi này, nơi khác có mầm mống phản loạn.

Còn thế kỷ thứ X thì sao? Đinh Tiên Hoàng cho nuôi hổ dữ trong cũi để xét án. Để dựng nước, yên dân, diệt mầm loạn đảng, bớt việc sai trái, vua mới cho đúc vạc lớn, nấu dầu sôi giữa sân điện, lại bắt hổ dữ cho vào cũi mà dọa kẻ nào rắp tâm làm chuyện trái nghịch.

Trong tuổi chuyển giao thời đại từ Bắc thuộc đi lên độc lập tự chủ, tổ quốc mới có được nền nhất thống nguyên sơ, phải lo củng cố sức mạnh quân sự để đương đầu với sự xâm lăng trở lại của giặc phương Bắc, thế nên dễ hiểu là trong hàng ngũ quan lại, chính yếu là quan võ, ngay cả các vị vua thời Ngô, Đinh, Tiền Lê đều là những người giỏi về mặt trận, đánh dẹp hơn là văn nghiệp.

Cũng bởi mới bước đầu xác lập, xây dựng chế độ phong kiến, nên các triều đại lúc này vào thế kỷ X còn nhiều điểm mang tính sơ khai, chưa được hoàn chỉnh.

Ngài đặt vạc dầu ở trước điện, nuôi hổ báo trong vườn, dựng cột đồng nung đỏ để trừng trị những kẻ gian ác và phản bội”. Còn đấng kim thượng mà đương cơn nóng giận, nổi trận lôi đình, thì việc không cũng thành có, ít thành nhiều, mà đúng thành sai là điều chẳng thể không tránh khỏi.

Với việc xử án theo cảm tính, thì khi vua đang có tâm cảnh vui vẻ, ắt xử án độ lượng, khoan dung

Giải mã chuyện vua Đinh xét án bằng “hổ dữ, vạc dầu”

Tuy nhiên, cũng phải thấy rằng, dù là biện pháp mạnh, thậm chí có phần khắc nghiệt, nhưng trong sử sách tự cổ chí kim chưa từng ghi nhận trường hợp nào phạm trọng tội mà bị Đinh Tiên Hoàng bỏ cho hổ xé xác phanh thây, hay phải chịu nghiệp luộc chín trong vạc dầu sôi đỏ lửa.

Điển hình là Trụ Vương nhà Thương để vui lòng Đắc Kỷ đã định ra kiểu xét xử “sái bồn” bằng cách đào hố sâu, bỏ rắn độc vào, lột y phục người bị tội xô xuống cho rắn cắn chết, rồi hình phạt “bào lạc” dùng chiếc cột đồng rỗng ruột đốt lửa đỏ cho nóng, dí nạn nhân vào cho thịt da cháy khét mà chết trong đau đớn. Nhưng đặt trong bối cảnh lịch sử nước Việt thế kỷ thứ X, mới thấy được cái lý trong quy định của Đinh Tiên Hoàng.

Hai câu trên trong bài diễn ca lịch sử bằng thơ  Đại Nam quốc sử diễn ca   của Lê Ngô Cát và Phạm Đình Toái đời nhà Nguyễn, nói về cách xử án “độc nhất vô nhị” trong sử Việt. Pháp hình cũng lạ xưa nay,    Hùm nuôi trong cũi, vạc bày ngoài sân.

Chứng nhận về sau có nhiều vụ như phò mã Ngô Nhật Khánh bội phản, hay Chi hậu nội nhân Đỗ Thích sát hại vua… mới thấy mầm phản loạn còn rất nhiều.

Ảnh minh họa. … Hình phạt bỏ vạc dầu sôi ở Trung Quốc xưa. Khi nhà Tiền Lê dứt, nhà Hậu Lý lên nối nghiệp năm Kỷ Dậu (1009), thì đến năm Nhâm Ngọ (1042) đã có luật Hình thư để giản tiện cho việc xử án, tạo điều kiện cho pháp luật nước ta tiến lên một bước mới từ xét xử bằng luật tục, cảm tính lên xét xử bằng luật nước, luật thành văn có sự quy củ, rõ ràng: “Sách làm xong, xuống chiếu ban hành, dân lấy làm tiện.

Vua Đinh trong một chừng đỗi nào đó không thể không bị ảnh hưởng bởi những tiền lệ đã có mà ứng dụng cho triều đình của mình. Theo sử cũ truyền lại: “Vua (Đinh Tiên Hoàng) muốn dùng uy chế ngự thế gian, bèn đặt vạc lớn ở sân triều, nuôi hổ dữ trong cũi, hạ lệnh rằng: “Kẻ nào trái phép phải chịu tội bỏ vạc dầu, cho hổ ăn” (  Đại Việt sử ký toàn thư  ).

Trong lịch sử Trung Quốc xưa kia, có nhiều vị vua cũng đã từng dùng những biện pháp mạnh để xét xử, khiến thiên hạ khiếp sợ.

Giải mã “hổ dữ, vạc dầu”  Các triều đại sau thời Đinh dù khi khép tội tử hình, có những cách xử khác nhau như lăng trì, giảo (thắt cổ), trảm (chém đầu), khiêu (chém bêu đầu) hay dùng thuốc độc… nhưng xét ra, biện pháp xử án dùng “hổ dữ, vạc dầu” như nói ở trên xét về tình rõ ràng bất hợp lý.

Nhưng, trị nước không chỉ là gươm bén, cung căng, giáo dài… mà còn bao việc phải lo để quốc thái dân an. Mặc dù có tác dụng đáng kể giúp đất nước xã tắc trong buổi đầu được yên, nhưng việc xử án không dựa vào văn bản, chế luật một mực của thời Đinh cũng có tác dụng ngược của nó. Tại thế kỷ X, việc nuôi hổ dữ trong cũi sắt, nấu dầu sôi giữa sân điện không tồn tại trong đời Ngô trước đó và đời Tiền Lê sau này, duy chỉ có ở đời vua Đinh Tiên Hoàng.

Phải đến thời Hậu Lý (1009 - 1225), cơ quan chuyên trách luật pháp là Bộ Hình và Thẩm hình viện được xây dựng, rồi bộ luật thành văn trước nhất là Hình thư ra đời năm Nhâm Ngọ (1042), lúc ấy nền tảng cho pháp luật nước Nam mới có và phát huy vào các đời sau với Quốc triều thông chế nhà Trần, Đại Ngu quan chế hình luật đời Hồ, Quốc triều hình luật thời Lê sơ. Trong  Việt sử toàn thư  , tác giả Phạm Văn Sơn cũng cho biết điều na ná: “Tiên Hoàng Đế ban hành nhiều lệ luật rất khắt khe.

Ngay lời trích dẫn của  Đại Việt sử ký toàn thư   có viết: “Mọi người đều sợ phục, không ai dám phạm”, đủ cho chúng ta thấy biện pháp của Đinh Tiên Hoàng cốt yếu là ngăn ngừa hơn là thực thi.