Thứ Tư, 25 tháng 9, 2013

Mô hình các trường ĐH, CĐ NCL: Hơn 20 năm một chặng đường phát triển.

Nếu theo chỉ đạo của Chính phủ thì các cơ sở giáo dục NCL sẽ được giảm hoặc miễn thuế; nhưng bây giờ các trường vẫn phải đóng 25% thuế, thực tế là bổ vào học phí trên đầu sinh viên

Mô hình các trường ĐH, CĐ NCL: Hơn 20 năm một chặng đường phát triển

“Chủ lực của từng lớp hóa giáo dục là khối các trường đại học ngoài công lập, phát triển các trường thuộc khối ngoài công lập đây là một chủ trương lớn chứ không phải là một giải pháp tình thế” GS Thi cho hay. Trần con tạo – Chủ tịch Hiệp hội các trường ĐH, CĐ NCL Việt Nam (VIPUA) đã từng phát biểu trong buổi làm việc với Ủy ban Văn hóa, giáo dục, thanh niên, thiếu niên và nhi đồng của Quốc hội và Bộ GD&ĐT rằng, để phát triển tổ quốc, để tạo nên sức mạnh trí não của nhà nước, để bảo vệ chủ quyền, để duy trì và phát triển nền văn hóa có bản sắc dân tộc thì dứt khoát không thể hi sinh một trong hai nguyên tố là quy mô và chất lượng đào tạo.

Ngoài hai tiêu chí sinh viên/giảng viên và số mét vuông/sinh viên để xác định chỉ tiêu cho các trường, ông Đào Trọng Thi kiến nghị tiếp một tiêu chí khác, theo ông là rất quan trọng, nếu thêm được tiêu chí này sẽ giải quyết được vấn đề tuyển sinh đối với các trường ngoài công lập.

Sinh viên ngoài công lập chịu 100% uổng, sinh viên công lập lại được nhà nước hỗ trợ khoảng 70%, rõ ràng rất không đồng đẳng. Tuy nhiên, phải chờ tới ngày 16/7/2010 Bộ GD&ĐT mới ban hành Thông tư hướng dẫn số 20 về việc chuyển đổi này. Cụ thể như việc chủ trương giao đất sạch cho các trường, nhưng hiện chưa có trường nào gọi là có được đất sạch, và ông Học khẳng định nếu chúng ta không có tiền đền bù mặc dầu luật của nhà nước đã quy định là thế nhưng còn “lệ làng” thì không bao giờ có đất để xây dựng trường.

Theo đó, yêu cầu thêm tiêu chí tỉ suất đầu tư cho mỗi sinh viên. Không nên mở các trường công lập nhiều, nếu mở thì mở các trường ngoài công lập. Nhưng buồn thay, các chính sách về giáo dục lại diễn tả sự đánh giá không đúng vai trò của giáo dục ĐH, CĐ NCL, dường như chưa coi đó là một phần của nền giáo dục ĐH VN, dẫn đến những bất cập về chính sách.

Mới đây GS. Nếu bộ Giáo dục tuyên bố sau năm 2015 mới đổi mới thì không khác gì Luật sẽ vứt vào sọt rác. Vấn đề tuyển sinh của các trường ĐH, CĐ NCL theo yêu cầu của ông Lê Văn Học hiện chúng ta đã có Luật Giáo dục đại học và luật cũng đã quy định các trường được phép tự tuyển sinh, tự ra đề. Nhưng đó chỉ là bề nổi của vấn đề.

“Chúng tôi sơ bộ tổng kết, trong vòng từ năm 2000 đến nay các trường ĐH, CĐ NCL đã đóng góp cho nhà nước khoảng hơn 30 nghìn tỉ, nếu tính từ thời trường ĐH Thăng Long năm 1988 đến nay thậm chí đã lên tới 50-60 nghìn tỉ, trong khi nhà nước không phải bỏ đồng nào” GS. Nói về sự ra đời và thực trạng của giáo dục ĐH, CD NCL bây chừ, GS. Trần Hồng Quân, nếu đã cho thành lập các trường ĐH thì cần cho quy chế tự chủ, nhà nước chỉ cần có những chế tài để xử lý khi vi phạm, lúc đó các trường mới có thể hoạt động trong một nhà tiêu thông thoáng, các trường công lập và NCL mới có thể cùng nhau cạnh tranh lành mạnh, nâng cao chất lượng giáo dục ĐH Việt Nam lên tầm cao mới.

GS. Nhĩ, nhà nước chỉ nên ôm lấy một số trường, chỉ đầu tư cho một số trường nào đó còn những trường khác từng bước chuyển sang hình thức tầng lớp hóa. Để giải quyết bài toán này cần phải có chính sách cho từng lớp hóa giáo dục, mà trong đó các trường NCL đóng vai trò chính yếu. GS Trần Xuân Nhĩ – Phó Chủ tịch VIPUA, nguyên Thứ trưởng Bộ GD&ĐT cũng cho rằng, nguồn lực để phát triển giáo dục không đủ trong khi đó nhà nước ôm hết mọi thứ thì không thể giải quyết được tốt vấn đề giáo dục, do vậy giải quyết nguồn lực như thế nào tôi cho phải là xã hội hóa, từng lớp hóa không phải phân tán mà quốc gia phải hỗ trợ bằng những chính sách.

Cũng theo GS. Vô lý còn miêu tả ở chỗ, tiền đầu tư của quốc gia cho giáo dục là tiền đóng thuế của toàn dân nhưng cùng là sinh viên thì công lập được hưởng, còn ngoài công lập lại không được hưởng.

Thực tại sau 7 năm ban hành Quyết định 122 mới có 2 trường (2/19 =10,5%) thành trường ĐH dân lập, một tỉ lệ quá thấp so với yêu cầu thực tại. Trường ĐH Thăng Long -mô hình trường NCL trước hết của cả nước. Trần Xuân Nhĩ cho biết. Nhĩ nêu quan điểm, nếu sinh ra đứa con bị suy dinh dưỡng ông sẽ cho thêm sữa để được trưởng thành chứ không nhất trí ý kiến bỏ mặc cho chết.

Tuy nhiên, việc tương trợ để các trường NCL phát triển thì chưa xứng với những tiềm năng đã có.

Bởi thực tế, ở Việt Nam chỉ dành 20% ngân sách nhưng tính ra chi phí bình quân trên đầu người về giáo dục thuộc loại thấp nhất trong khu vực. Đào Trọng Thi đưa ra để hỗ trợ cho nguồn ngân sách 20% chi cho giáo dục là tăng cường xã hội hóa, phải sử dụng nguồn từ xã hội hóa, điều này không những các trường ngoài công lập mà các trường công lập cũng phải xã hội hóa bằng cách có sự đóng góp từ sinh viên nhiều hơn (chuẩn y học phí) và nhà nước không bao cấp nhiều.

Trường NCL góp một lượng ngân sách lớn cho quốc gia  Theo số liệu mới nhất thì hiện cả nước có 83 trường ĐH, CĐ NCL, trong đó có hơn 30 trường đã hoạt động khôn cùng hiệu quả, góp phần tạo nên dung mạo mới của nền giáo dục nước nhà, tạo thêm nhiều nhịp được học tập và tạo việc làm cho hàng chục vạn người. ) Lại không được bảo toàn?. Nhiều câu hỏi được đặt ra là: Trường Đại học có phải là doanh nghiệp không? Hội đồng quản trị của trường bầu theo đối vốn hay đối nhân là có lí? Trong khi vốn của nhà đầu tư được bảo toàn thì vốn vô hình (công lao sáng lập.

Cùng quan điểm này, GS. Một trong hai giải pháp mà GS. Trong Luật Giáo dục năm 2005 và các văn bản dưới luật cũng đã chỉ rõ quy định về loại hình trường. Thực tiễn, nhiều trường vẫn đang loay hoay với Thông tư 20 của Bộ GD&ĐT, lãnh đạo các trường cho rằng, khi ứng dụng Thông tư 20 nhiều vấn đề phức tạp xuất hiện và khó giải quyết.

Đào Trọng Thi nêu thực trạng các trường NCL những năm qua thường không tuyển được sinh viên, ở đây có một mấu mà chốt bấy lâu chúng ta chưa nghĩ tới đó là không kiểm tra các trường công lập về việc xác định chỉ tiêu, nhiều trường xác định chỉ tiêu không đúng, vượt lên so với quy định sinh viên/giảng viên và mét vuông sàn/sinh viên.

Nên, Chính phủ đã ban hành Quyết định số 112/2006/QĐ-TTg cho phép 19 trường Đại học tư thục được phép chuyển đổi sang loại hình trường ĐH dân lập. Ông Lê văn chương – Phó Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, giáo dục, thanh niên, thiếu niên và nhi đồng của Quốc hội từng nói rằng, một số cơ chế chính sách với các trường ĐH, CĐ NCL còn xa thực tiễn.

Theo đó, ở ĐH không có loại hình trường ĐH tư thục. Một vấn đề khác liên hệ tới chuyển đổi mô hình từ tư thục sang tư thục hiện giờ đối với 19 trường ĐH, CĐ NCL vẫn chưa được giải quyết dứt điểm.

Hoài bình quân để đào tạo 1 sinh viên đại học/1 năm chỉ vài trăm đô la, và con số này chưa nước nào thấp như vậy. Liên hệ tới vấn đề tuyển sinh của các trường ĐH, CĐ NCL, GS. Vấn đề then chốt ở đây theo lãnh đạo nhiều trường ĐH, CĐ NCL là cơ chế cho các trường phát triển thì hầu như chưa được thực thi bình đẳng so với trường công lập.

Theo GS. Đào Trọng Thi - Chủ nhiệm Ủy ban Văn hóa, giáo dục, thanh niên, thiếu niên và nhi đồng của Quốc hội khẳng định, chủ lực từng lớp hóa giáo dục là khối các trường ĐH, CĐ NCL.

Trần Hồng Quân cho biết, các trường ra đời cốt không phải để giải quyết vấn đề kinh phí đầu tư cho nhà nước; quan yếu hơn, đây là mô hình tổ chức ĐH năng động, tự chủ, có động lực tự thân để phát triển không ngừng.

Nhĩ cho rằng, với hơn 400 trường ĐH, CĐ như hiện nay không phải là nhiều, vấn đề ở đây là chúng ta đang có tốc độ phát triển quá nhanh các trường.

Tính tới thời điểm này sau khi có Thông tư chỉ dẫn của Bộ GD&ĐT mới có 2 trường đã thực hành xong việc chuyển đổi sang trường dân lập (Đại học Thăng Long và Đại học Quốc tế Hồng Bàng).

Vẫn còn những nỗi lo từ cơ chế  Trong những năm gần đây tầng lớp, dư luận cho rằng nhiều trường ĐH, CĐ NCL không tuyển được sinh viên, không cuốn được sinh viên theo học, học phí cao. Vì thực tại, các trường ngoài công lập thu học phí của sinh viên để có phí tổn đào tạo, trong khi các trường công lập được nhà nước đầu tư, nếu các trường tuyển nhiều sinh viên tất nhiên phần đầu tư của nhà nước bị chia nhỏ và tỉ suất/sinh viên lúc đó giảm xuống.

Quan điểm của GS.