Chủ Nhật, 25 tháng 8, 2013

Thầy thuốc với văn chương mọi người đọc nghệ thuật.

Đỗ Hồng Ngọc là tập ký chân dung các văn nghệ sĩ

Thầy thuốc với văn học nghệ thuật

Rồi nữa, chuyện “phong bì” trong ngành y tế cũng là một minh họa sinh động cho thực tiễn này. Và, nhờ vậy lòng trắc ẩn, tình yêu thương không bao giờ vơi giảm trong những năm tháng hành nghề của người bác sĩ. Và để nghề thăng hoa, để hành nghề hạnh phúc, người bác sĩ còn phải có một tâm hồn lãng mạn và một trái tim hiền hậu dẫn đường.

Với mỗi một người bác sĩ, những tư tưởng chủ đạo trong  Lời thề y học  (Hippocratic Oath) được truyền dạy từ cha đẻ của ngành y, Hippocrates (460 - 370 trước Công nguyên), vẫn thấm đẫm tính nhân văn và là kim chỉ nam cho y đức (medical ethics). Và phép chữa bệnh không chỉ vận dụng cho phần thể xác mà còn phải cho, thậm chí là trước nhất cho sức khỏe phần tâm hồn.

Nhưng nếu thiếu “suối nguồn văn chương” thì những hạt giống tâm hồn sẽ thiếu đất gieo và khó đâm chồi nảy lộc, nở hoa kết trái bác ái, thương tình. Những thiếu sót của ngành y bữa nay có phải là do thiếu vắng những điều như thế. Đó là chưa kể đến nguy cơ vi phạm y đức khi ứng dụng. Vậy thì đâu phải chỉ có khoa học thiên nhiên mới cần cho những người thầy thuốc ngày mai, còn văn chương (và khoa học từng lớp nói chung) thì không cần đến.

Đó là nghệ thuật giao dịch, nghệ thuật ứng xử tâm lý và hành vi giữa con người với con người. Từ đó, càng thấu hiểu một nguyên lý rất cơ bản của y khoa là  chữa bệnh không chỉ chữa về thể chất mà cần phải chữa cả ý thức. Thật đáng buồn nhưng đó là thực tiễn đang diễn ra. Ngay từ thời xa xưa cách đây gần 2. Viết vội, viết láu khác với viết xấu. Họ đau vị nó xúc phạm đến thiên chức xã hội của người bác sĩ, vì nó làm giảm sút đi những vinh quang cao quý của nghề.

Mà “nét chữ là nết người” (Phạm Văn Đồng), viết ẩu cũng phần nào phản ảnh tính cẩu thả của con người. Cũng chính điều đó đã làm nên sự thơm thảo, phần cao quý của ngành y, như lời Hippocrates:  “Nếu tôi làm trọn lời thề này và không có gì vi phạm, tôi sẽ được hưởng một cuộc sống sung sướng và sẽ được hành nghề trong sự quý trọng mãi mãi của mọi người”.

Thực ra thì không phải vậy. Tuy vậy, trong bất cứ tình cảnh nào, người thầy thuốc cũng cần phải có lương tâm, bởi hơn bất cứ ngành nào khác, trong ngành y  “Khoa học mà không có lương tâm chỉ là sự sa đọa của tâm hồn”   (Francois Rabelais, 1494 - 1553).

Tác phẩm   Nhớ đến một người  của BS. Chính bởi thế mà mọi mô hình, mọi khuôn thước theo kiểu duy lý của y học đều chẳng thể thu được kết quả đại trà cho cộng đồng người. BS

Thầy thuốc với văn học nghệ thuật

Đương nhiên, không ai ngây thơ đơn giản nghĩ rằng, người học toán thì khô mà người học văn thì lãng mạn.

Nhưng tình thương tình và lòng nhân ái không phải từ trên trời rơi xuống. Về mặt này, y học thật gần với văn chương, như người ta thường nói:  “văn học là nhân học”  (Maxim Gorki). Ảnh: Trần Minh  Ai cũng biết ngành y là một ngành khoa học, nhưng hoạt động thực tại ngành y là giao thoa giữa nghệ thuật và khoa học.

Và đúng như lời của nhà ngoại khoa lỗi lạc người Đức, Theodor Billroth (1829-1894):  “Chỉ có người có tấm lòng cao cả mới trở thành một thầy thuốc tài năng”   (Seulement un home de grand ceur peut être un bon médecin).

Đó cũng là ngành khoa học thực nghiệm trên đối tượng cụ thể là những con người, báu vật siêu việt nhất của tạo hóa. Như tư tưởng của Hippocrates, ở đây lại nổi lên những “thuộc tính” cần và đủ của người bác sĩ. Rồi cho đến khi ra trường hành nghề, những kiến thức khoa học thiên nhiên ngoài việc giúp cho mỗi người có tư duy “kiểu toán” như người ta vẫn nói, chỉ còn cần đến khi tiến hành những nghiên cứu khoa học và trong tổng kết hoạt động chuyên môn.

Cũng một phần vì bận việc, thiếu thời gian (có nhiều nơi khám bệnh chỉ có 1 - 2 phút cho mỗi bệnh nhân) nên bác sĩ kê toa viết vội, viết láu đến nỗi chính mình đọc cũng không ra.

”. Để làm được như vậy, người hành nghề bác sĩ phải có nhiều tiết hạnh mà trong đó  tình thương yêu, lòng nhân ái   là cỗi nguồn của  đức hy sinh. Tập thơ   Từ đá vắt ra   của TTƯT. Mặc dầu con người vốn “nhân chi sơ tính bản thiện”, nhưng đó mới chỉ là sự chịu đựng chứ chưa phải là tinh thần cống hiến, chưa phải là cách mưu cầu hạnh phúc bằng sự “cho đi” mà không đợi “nhận về” như cổ nhân đã dạy:  “Thi ân bất cầu báo”.

Một tâm nguyện cống hiến, một đức tính tận tụy, hy sinh, một tấm lòng có nhân, vị tha là những điều người thầy thuốc cần phải có. Chữ xấu, câu cú lích kích, nói năng cụt ngủn, tính cáu bẳn, thiếu đồng cảm sẻ chia với người bệnh, là những thói tật thường đi với nhau và có ở không ít người thầy thuốc.

Nếu người thầy thuốc là một nghệ sĩ bởi vì khoa học của họ là một nghệ thuật thì họ phải là một hiền nhân, bởi tâm hồn của họ là một đức tin và nghề nghiệp của họ là một sứ mệnh”   (Hồ Đắc Di,  Vinh và lụy của ngành y,  1949).

Thực bụng mà nói, người thầy thuốc nhận cái “phong bì” từ tay của người bệnh cũng chẳng sung sướng gì. Hãy xét một chuyện nhỏ thôi là chữ. “Không có bệnh mà chỉ có người bệnh”  , đó là nguyên tắc cơ bản của y học để nhấn mạnh đối với một loại bệnh, phải dựa trên tình trạng của một người cụ thể bị mắc bệnh để điều trị, không có biện pháp điều trị chung cho quơ mọi người.

Hồ Đắc Di đã viết:  “. Vì sao ở đâu đó sự giao tiếp của bác sĩ với bệnh nhân thiếu đi sự “lắng nghe và thấu hiểu”? Tại sao có những “từ mẫu” áo trắng không còn là những “mẹ hiền”. Lâu nay, chữ nào mà không đọc nổi người ta vẫn gọi là “chữ bác sĩ”

Thầy thuốc với văn học nghệ thuật

500 năm, những điều mấu chốt trong tư tưởng hành nghề y của Hippocrates vẫn tỏa sáng đến ngày nay: y học là khoa học về con người, cả thể chất và tinh thần. Dù nhìn ra từng lớp thấy ai cũng vậy nên cũng được an ủi một phần, nhưng thực ra họ cũng đau lòng lắm.

Người thầy thuốc đến với bệnh nhân là động thái của một con người đang đến với một con người. Nhưng đó chỉ là biện hộ. Phú Xuân. Các thầy thuốc tham gia khám từ thiện cho người dân trong cộng đồng. Do, văn chương nghệ thuật chân chính có tác dụng di dưỡng tâm hồn con người, giúp con người có được tấm lòng cao cả biết yêu đồng loại, và đối với người bác sĩ là biết yêu thương người bệnh, coi người bệnh như ruột rà của mình.

Nhưng tạo hóa cũng thật là đánh đố khi tạo ra tình trạng “không ai giống ai” về mặt hình hài thân xác trong quờ quạng loài người. Nhà nghệ sĩ trước hết là một người dễ cảm xúc, người thầy thuốc chân chính cũng vậy, giá trị của họ cũng như của họa sĩ hay nhạc sĩ đều tỷ lệ thuận với sự nhạy cảm của họ. Đó có phải là do thiếu rèn luyện chữ nghĩa và thiếu văn chương để nuôi dưỡng một tâm hồn mẫn cảm, vị tha? Chúng ta cũng nên nhớ rằng:  “Người thầy thuốc chỉ tỏ ra xứng đáng với nghề nghiệp cao quý của mình khi biết phối hợp khoa học với văn hóa.

Sau một hai năm đầu học khoa học cơ bản với những toán, lý, hóa, sinh. Cũng từ hàng trăm năm trước, người ta đã đưa ra một định nghĩa đơn giản về sức khỏe là  “một tâm hồn trong sáng trong một thân thể lành mạnh”   (âme saine dans un corps sain). Nếu xét cả phần tâm hồn, cả mặt ý thức nữa thì sự khác biệt giữa những cá thể người là khôn xiết, vô tận.

Về chương trình học thì ngành y ở các nước Âu Mỹ cũng như ở nước ta là dài nhất trong các ngành đào tạo và cũng thiên về “chữ” nhiều hơn “số”. Ta đã thấy không ít người làm nghề toán mà tâm hồn văn chương lai láng. Đó cũng chính là tinh thần chủ đạo trong lời dạy của Bác Hồ:  “Lương y kiêm từ mẫu”. Chỉ có với những bác sĩ như vậy thì ngành y mới có thể làm tròn thiên chức cao quý “chăm lo sức khỏe” cho toàn từng lớp và tầng lớp mới có thể yên lòng với những người “từ mẫu” của mình.

Thi sĩ Trần Sĩ Tuấn. Cả từng lớp ca cẩm lên án nhưng ai cũng biết ngành y không phải là một ốc đảo giữa từng lớp và các bác sĩ không phải là những Robinson Cruso giữa hoang đảo đó nên trong điều kiện xã hội hiện, “phong bì” còn là một “vấn nạn” không riêng gì của ngành y tế.

Ngay từ năm 1949, trong bài  Vinh và lụy của ngành y,  GS. , Sinh viên y học bắt đầu những năm tiếp theo với những môn học y học cơ sở và y học lâm sàng mang tính biểu lộ và chỉ dẫn với hàng núi con chữ chỉ có thể đọc và học để thọc.

Hồ hết hoạt động thực tế nghề y là quá trình giao tiếp xử sự giữa thầy thuốc với bệnh nhân, là các hoạt động xã hội để chăm lo sức khỏe và phòng bệnh cho cộng đồng. Lòng tự tôn nghề nghiệp ấy đã được hình thành từ khi họ mới bước chân vào “trường thuốc”.